![]() |
Trong sữa có nhiều Protein |
Khái niệm và tính chất hóa học của Protein trong sữa
Có
nhiều loại protein và mỗi loại có chuỗi acid amin riêng (thường mỗi loại có vài
trăm acid amin). Có 22 loại acid amin khác nhau có thể kết hợp để tạo chuỗi
protein. Có 9 acid amin mà cơ thể con người không thể tạo ra được và phải thu
nhập từ thức ăn. Những acid này được gọi là các acid amin thiết yếu
Các
acid amin trong chuỗi protein có thể liên kết trên toàn chuỗi và gấp vào nhau
để tạo thành cấu trúc 3 chiều. Protein có thể tương đối thẳng hoặc có thể bó
chặt vào thành một dạng giọt, hoặc ở giữa 2 dạng này. Thuật ngữ “denatured” –
phân giải - được sử dụng khi protein tách ra khỏi liên kết thẳng hoặc liên kết
hình giọt nước ban đầu. Việc phân giải protein có thể có lợi trong một số tường
hợp, ví dụ như nó cho phép các Enzyme tiếp cận dễ dàng hơn đến các chuỗi
protein để tiêu
hóa. Hoặc để tăng khả năng cho các whey protein trong việc giữ
nước, tạo ra một kết cấu mong muốn trong sản xuất
sữa chua.
Tính chất hóa học của protein trong sữa
Sữa có
khoảng 3.3% là protein. Protein trong sữa chứa tất cả 9 loại acid amin thiết
yếu cho con người. Protein trong sữa được tổng hợp từ tuyến vú, nhưng 60%
acid amin cấu thành nên protein thì lại được tổng hợp từ thức ăn của bò. Thành
phần protein trong sữa và các acid amin cấu thành là khác nhau với từng giống
bò, và khác nhau giữa các loài.
Có 2 loại protein trong sữa đang được phân loại và chấp nhận rộng rãi dựa trên thành phần hóa học và tính chất vật lý của chúng: Nhóm Casein và whey protein (protein hòa tan).

Nhóm
casein bao gồm Phosphorus, đông đặc hoặc kết tủa tại pH 4.6. Protein hòa tan
thì không có Phosphorus và các protein này tồn tại ở dạng lỏng khi pH 4.6. Các
nguyên tắc về đông đặc này và sự hình thành sữa đông khi độ pH giảm là cơ sở để
làm Pho mát. Trong sữa bò, khoảng 82% protein là Caseion, và phần còn lại là
whey protein (protein hòa tan)
Nhóm
casein trong protein gồm vài dạng casein (α-s1, α-s2 , ß, and 6) mà
mỗi dạng có cấu trúc acid amin riêng, biến thể di truyền riêng và tính năng
riêng. Các casein tách biệt khỏi sữa và tồn tại trong một phức hợp gọi là
meicelle – sẽ được đề cập trong phần tính chất vật lý của protein
trong sữa

Protein
hòa tan (whey protein) bao gồm khoảng 50% ß-lactoglobulin,
20% α-lactalbumin, còn lại là abumin huyết thanh (protein quan trọng nhất
của huyết thanh), globulin miễn dịch (giúp miễn dịch), lactoferrin (tăng đề
kháng..) , transferrin (vận chuyển sắt trong huyết thanh) và nhiều các protein
thiểu số và các enzyme khác. Cũng giống như các thành phần chính khác của sữa,
mỗi protein hòa tan có cấu trúc và tính chất riêng và các biến thể. Protein hòa
tan không có chứa Phosphorus nhưng chứa một lượng lớn Sulfur (lưu huỳnh) trong
các axid amin. Cấu trúc Đi Sulphua (-S-S-) (2 lư huỳnh liên kết với nhau) trong
protein tạo cho chuỗi một dạng hình cầu nhỏ gọn. Cấu trúc Đi sulphua có thể bị
bẻ gãy, làm mất cấu trúc nhỏ gọn, và quá trình này gọi là denaturing (biến
tính). Biến tính là một lợi ích trong việc sản xuất sữa chua, nó làm tăng lượng
nước mà protein có thể ngậm, điều này cải thiện kết cấu của sữa chua. Nguyên
tắc này cũng có thể được sử dụng để tạo ra các whey protein chuyên biệt với
tính chất và chức năng độc đáo để sử dụng trong ngành công nghiệp thực phẩm.
Người ta có thể dùng whey protein để ngậm nước trong thịt và các sản phẩm giò
chả.
Chức
năng của nhiều whey protein không được định nghĩa rõ ràng, và chúng có thể
không có các chức năng riêng biệt trong sữa nhưng nhưng có thể là các thành
phần để tổng hợp sức. Chức năng của ß-lactoglobulin được cho là vận chuyển
vitamin A – điều thú vị là nó không có trong sữa người. α-Lactalbumin đóng vai
trò quan trọng trong việc tổng hợp lactose trong tuyến vú. Gobulin miễn dịch
đóng vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch của động vật, nhưng vẫn chưa
rõ là những tính năng này có được chuyển cho con người hay không. Lactoferrin
và transderrin đóng vai trò quan trong trong việc hấp thụ sắt.
Tính chất vật lý của Protein trong sữa
Casein
micelle có hình cầu và có đường kính từ 0.04 đến 0.3 µm, nhỏ hơn nhiều so với
các giọt chất béo (khoảng 1 µm) trong dung dịch sữa đã được đồng nhất. Casein
micelle là các cấu trúc xốp, cho phép nước đi qua tự do trong và ngoài micelle.
Casein micelle cân bằng nhưng là một cấu trục động và không tồn tại ngoài dung
dịch. Chúng có thể bị đun sôi hoặc làm lạnh, và có thể bị sấy khô và tái tạo mà
không gây tác dụng phụ. ß-casein, cùng với một vài canxi phốt phát sẽ di chuyển
vào và ra khỏi micelle khi có sự thay đổi nhiệt độ, nhưng không ảnh hưởng đến
dinh dưỡng của protein và các khoáng chất.
Whey
Protein xuất hiện như những đơn vị nhỏ, tan trong nước của sữa.
Suy giảm protein trong sữa
2 loại
acid amin trong sữa, methionine và cystine rất nhạy cảm với ánh sáng và có thể
bị phân giải khi gặp anh sáng. Điều này gây mất mùi sữa và giảm chất lượng dinh
dưỡng của 2 acid này trong sữa.

Casein
khá cân bằng dưới tác dụng của nhiệt. Thanh
trùng bằng Nhiệt độ
cao trong thời gian ngắn (HTST) không ảnh hưởng đến chức năng và dinh dưỡng của
casein protein. Nhiệt độ cao có thể gây ra tác động giữa các casein và whey
protein, làm ảnh hưởng đến chức năng nhưng không ảnh hưởng đến dinh dưỡng của
protein trong sữa. Ví dụ, do nhiệt độ cao, ß-lactoglobulin có thể tạo ra màng
trong các casein micelle điều này làm phomat không đông được
0 nhận xét:
Đăng nhận xét