Trang
này thảo luận về những mặt tích cực và tiêu cực của sữa thành phẩm đến sức khỏe
của con người. Tác động của thức ăn chỉ là một nhân tố ảnh hưởng đến sức khỏe
con người – vốn chịu tác động bởi nhiều yếu tố như giới tính, gene, lối sống
(ví dụ như tập thể dục hoặc hút thuốc là các nhân tố rất mạnh ảnh hưởng đến sức
khỏe một cá nhân). Có một lượng đáng kể những biến số khi kiểm nghiệm và kết
quả của các nghiên cứu khác nhau trên cùng một chất dinh dưỡng có thể đối lập
nhau, do đó các nghiên cứu này làm người tiêu dùng lạc lối. Các nhà khoa học
tiếp tục tinh chỉnh, đào sâu các nghiên cứu và nâng cấp các công cụ nghiên cứu
của họ để cho ra các kết luận chính xác hơn
Chủ
đề về sức khỏe sẽ nghiên cứu các vấn đề sau trong mối tương quan với sữa: Dị
ứng, viêm khớp, ung thư, acid linoleic liên hợp (CLA), bệnh tim mạch vành, sâu
răng, tiểu đường, tăng huyết áp, không dung nạp lactose, loãng xương và sức
khỏe của xương, chế phẩm sinh học (probiotics), và sử dụng sữa tươi nguyên
chất.
Có
một lượng thông tin đáng kể về các chủ đề này, website này cũng không đào sâu
vào các nghiên cứu chuyên biệt. Các tài liệu tham khảo được viết bởi các chuyên
gia sẽ được đưa vào đây ở dạng tổng hợp lại các kết quả nghiên cứu.
Sữa và dị ứng
Dị
ứng thực phẩm là một phản ứng miễn dịch với protein dẫn đến các triệu chứng
liên quan đến viêm da, hệ hô hấp và đường tiêu hóa. Một số người nghĩ là họ dị
ứng sữa vì họ bị đầy hơi, đau bụng và tiêu chảy sau khi uống sữa thành phẩm.
Đây không phải là một phản ứng dị ứng, nhưng là một tình trạng kém dung nạp
lactose, và sẽ được thảo luận trong một phần riêng biệt dưới đây.

Có
2 loại protein chính trong sữa là casein và whey protein (protein hòa tan), và
có rất nhiều dạng protein trong mỗi loại này. Mặc dù mức độ nhạy cảm với từng
loại protein trong sữa là khác nhau, nhưng hiện nay tất cả các protein trong
sữa đều được chứng minh là gây ra dị ứng. Phản ứng của cơ thể người với sự đa
dạng của các loại protein trong sữa cũng chỉ ra là người bị dị ứng sữa bò sẽ dễ
bị dị ứng sữa dê, cừu và trâu – tuy nhiên còn cần thêm nhiều nghiên cứu đề có
thể công bố kết luận này. Tất cả các liệu pháp điều trị dị ứng sữa đều khuyên
người ta không nên uông sữa trong giai đoạn bị dị ứng. Vì có nhiều trẻ em lớn
lên và hết bị dị ứng sữa, các loại sữa thành phẩm có thể được đưa lại vào trong
thực đơn cho trẻ để trẻ có thể nhận được những lợi ích dinh dưỡng từ sữa. Các
phương pháp thanh trùng không ảnh hưởng đến chất lượng hoặc cấu trúc của
protein, do đó nó không phải là tác nhân gây dị ứng trong sữa.
Dị
ứng thực phẩm là một vấn đề mới nổi và lôi cuốn nhiều lĩnh vực khoa học nghiên
cứu. Bạn có thể tìm hiểu thêm các bài viết học thuật và nghiên cứu mới nhất tại
đây: Crittenden and Bennett (2005), Sicherer and Sampson (2006), và Wal (2004).
Sữa và viêm khớp

Người ta khuyên rằng uống
sữa tươi sẽ giảm viêm khớp. Tuy nhiên không có một nghiên cứu hay một tài liệu
nào báo cáo kết quả của việc uống sữa và bệnh viêm khớp. Hiện nay không có các
khuyến cáo khoa học về việc ăn uống để giảm viêm khớp ngoại trừ việc duy trì một
trọng lượng cơ thể khỏe mạnh và chế độ ăn uống cân bằng. Để có nhiều thông tin
hơn về vấn đề này, bạn hãy truy cập vào trang www.arthritis.org.
Sữa và ung thư
Ung thư là một bệnh đặc
trưng bởi sự tăng trưởng các nhân tố ác tính trong cơ thể. Các bệnh ung thư
khác nhau có các triệu chứng khác nhau, hình thức phát bệnh, điều trị và những
nhân tố nguy hiểm khác nhau. Ung thư được nghiên cứu rất nhiều và có rất nhiều
tài liệu về nó. Do các biến thể trong các loại ung thư, sự trao đổi chất của từng
cá nhân, nên các nhân tố được đánh giá trong bất kỳ một nghiên cứu nào cũng có
thể tạo ra những kết quả đối lập nhau dù được nghiên cứu cùng một chủ đề. Các
nhân tố ảnh hưởng đến tác hại của ung thư bao gồm gene, lối sống (ví dụ hút thuốc,
hoặc tập thể dục), thức ăn và các nguyên nhân từ môi trường bên ngoài
Thức ăn có lượng chất
béo và calori cao, ít chất xơ và các loại rau củ có thể làm tăng nguy cơ một số
bệnh ung thư. Chế độ ăn với nhiều sữa có thể gây ra ung thư vú vì một số sữa hoặc
sản phẩm từ sữa có nhiều chất béo. Tuy nhiên có nhiều nghiên cứu trái ngược về
mối liên hệ giữa việc hấp thụ chất béo cao (bất kỳ lại nào) và ung thư vú. Người
ta đã từng nghĩ việc uống sữa thành phẩm tăng nguy cơ ung thư, nhưng chúng ta
hiện nay đã biết có nhiều thành phần trong sữa giúp chống lại ung thư: Calcium,
vitamin D, Acid Linoleic liên hợp (CLA), sphingomyelin và whey protein (protein
hòa tan).
.jpg)
Thu nạp Calcium và
vitamin D cũng được chứng minh là có tác dụng chống lại ung thư vú. Acid
Linoleic liên hợp rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn sự phát triển của ung
thư vú, và thậm chí cả ung thư da, dạ dày, ruột trong môi trường thí nghiệm.
Whey protein cũng được chứng minh là giúp ngăn chặn sự phát triển của ung thư
vú trong môi trường thí nghiệm. Một số báo cáo chỉ ra các yếu tố tăng trưởng giống
insulin (IGF-1) và các hormone tăng trưởng trong sữa có thể thúc đẩy ung thư
vú. Tuy nhiên lượng IGF trong sữa rất nhỏ so với lượng IGF nội sinh trong cơ thể,
và GH của bò không hoạt động trong cơ thể người. Do đó các nhân tố này không thể
gây ra ung thư vú ở người
Triển vọng của Acid Linoleic liên hợp, sphongomyelin và whey protein trở thành các chất chống ung thư sẽ rất hứa hẹn, nhưng vẫn còn cần thêm nhiều nghiên cứu khác trên cơ thể người. Bạn có thể đọc thêm các tài liệu sau để có thêm thông tin về sữa và các bệnh ung thư: Gill and Cross (2000), Huth et al. (2006), Kritchevsky (2000), Miller et al. (1999), Parodi (2004, 2005).
Triển vọng của Acid Linoleic liên hợp, sphongomyelin và whey protein trở thành các chất chống ung thư sẽ rất hứa hẹn, nhưng vẫn còn cần thêm nhiều nghiên cứu khác trên cơ thể người. Bạn có thể đọc thêm các tài liệu sau để có thêm thông tin về sữa và các bệnh ung thư: Gill and Cross (2000), Huth et al. (2006), Kritchevsky (2000), Miller et al. (1999), Parodi (2004, 2005).
Sữa và acid Linoleic liên hợp (CLA)
Acid Linoleic liên hợp
(CLA) là một acid béo trong sữa có một cấu trúc hóa học cụ thể và công dụng cho
sức khỏe độc đáo. C:A cps 1 chuỗi 18 Acid béo với 2 liên kết đôi cách nhau 1
carbon trong phân tử Carbon - ở cả 2 dạng Cis và Trans. Nó có các đồng phân tạo
thanh nhóm CLA bao gồm: (Cis-9, Trans-11 CLA), (trans-10, cis-12 CLA), và
(trans-11, cis-13 CLA). Đồng phân quen thuộc nhất là cis-9, trans-11 CLA chiếm
đến 70% trng chất béo trong sữa. Cis-9, Trans-11 CLA và trans-10, cis-12 là các
đồng phân quan trọng nhất cho sức khỏe của con người.
Con người ngày càng nhận ra
các acid béo khác nhau sẽ chuyển hóa và đóng góp khác nhau cho sức khỏe con người
(cả 2 mặt tích cực và tiêu cực). Thông tường các acid dạng trans được cho là có
hại cho sức khỏe, đóng góp thêm các nghiên nhân gây bệnh tim mạch vành. Có một
phong tào ở Mỹ và các quốc gia phát triển khác để giảm tối đa lượng acid dạng
trans trong thực phẩm. Tuy nhiên, những quan ngại về các adid dạng trans là những
loại mà được tạo ra trong quá trình hydo hóa dầu thực vật để tạo ra các thực phẩm
chức năng mong muốn cho con người phục vụ việc làm bơ thực vật, bánh nướng và
nhiều loại thực phẩm chế biến khác. Có một sự khác biệt về tác động lên sức khỏe
của các acid dạng trans tạo ra trong quá trình sản xuất công nghiệp của dầu thực
vật và các acid dạng trans tự nhiên trong mỡ và sữa của động vật.
Công
dụng đầu tiên của CLA được phát hiện cách đây hơn 20 năm (tính đến năm 2014) đó
là chống ung thư. Nghiên cứu CLA vẫn còn khá mới, và đang có rất nhiều nghiên
cứu về nó diễn ra. Một nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của các nghiên cứu CLA
là việc CLA có nhiều đồng phân, và chỉ mới đây thôi các nhà khoa học mới có thể
phân tách chúng ra để nghiên cứu riêng biệt. Mỗi đồng phân CLA khác nhau có
nhưng chức năng sinh lý khác nhau.
Đặc
tính chống ung thư của CLA được nghiên cứu trong nhiều môi trường thí nghiệm
khác nhau. Có bằng chứng mạnh mẽ về việc CLA ngăn chặn ung thư vú ở giai đoạn
bắt đầu và giai đoạn tăng trưởng. CLA cũng có tác động ngăn chặn ung thư da, dạ
dày và đại tràng. Đồng phân cis-9, trans 11 CLA chịu trách nhiệm cho việc chống
ung thư của CLA, mặc dù cơ chế của nó vẫn đang được nghiên cứu. Cả cis-9,
trans-11 CLA và trans-10, cis-12 CLA tăng cường chức năng miễn dịch và giảm
phản ứng viêm. Nghiên cứu trên ddoongjv ật chỉ ra có một sự thay đổi trong cấu
trúc cơ thể làm giảm lượng chất béo và tăng nạc với trans-10, cis-12 CLA.
Nghiên cứu trên con người về vấn đề này vẫn còn đang được thực hiện. Và cũng
cần lưu ý là động vật nghiên cứu thường ở giai đoạn tăng trưởng tích lũy và CLA
tác động để thay đổi nhiều nạc hơn, ít mỡ hơn. Trong khi nghiên cứu về con người
lại sử dụng người lớn làm đối tượng nghiên cứu. Sự pha trộn của các đông phần
được sử dụng trong nghiên cứu để chỉ ra CLA có khả năng giảm cholesterol trong
huyết tương và ngăn chặn sự phát triển của các bệnh tim mạch vành.
Con
người cần một lượng bao nhiêu CLA để thu được những lợi ích này vẫn là điều
chưa biết. Nội dung của CLA trong sữa biến động bởi rất nhiều yếu tố bao gồm cả
việc thức ăn cho bò và sự khác nhau của các loại bò. Trong thực tế, sữa từ bò
ăn trên đồng cỏ có lượng CLA cao hơn bò nuôi ăn theo khẩu phần. CLA tồn tại
trong chất béo của sữa, do đó sữa có hàm lượng béo cao hơn sẽ có nhiều CLA hơn
Các
bài viết học thuật về CLA: Kritchevsky (2000),MacDonald (2000), O'Shea et al. (2004), Parodi (2004), Terpstra (2004), và trang web về CLA do Đại học Wisconsin quản
lý http://www.wisc.edu/fri/clarefs.htm.
Sữa và bệnh tim mạch vành
Bệnh
tim mạch vành (CHD) là nguyên nhân chính dẫn đến tử vong ở các nước phát triển.
CHD có đặc trưng là sự tích lũy các mảng bám trong thành động mạch, thu hẹp các
động mạch và làm giảm lưu lượng máu và oxy đến cơ tim. Có rất nhiều yếu tố nguy
cơ gây ra CHD. Nhiều nhân tố không thể thay đổi như: Nam dễ bị hơn nữ, già dễ
bị hơn trẻ, và tiền sử người trong gia đình bị CHD. Một số yếu tố có thể thay
đổi được như: hút thuốc, huyết áp cao, béo phì, thiếu tập thể dục, nồng độ
cholesterol cao trong máu. Những tác
động liên quan giữa nồng độ cholesterol cao và nguy cơ CHD đã được trình bày
trong rất nhiều tài liệu.
Tổng
lượng cholesterol trong máu bao gồm vài yếu tố có tác động khác nhau đến CHD.
Tỷ trọng thấp lipoprotein ở mức độ nặng (LDL) có ảnh hưởng mạnh nhất đến nguy
cơ CHD, trong khi tỷ trọng cao lopoprotein ở mức độ nặng (HDL) lại có tác động
chống lại CHD. Việc gia tăng lượng triglyceride, hoặc triacylglycerol cũng có
thể tăng nguy cơ CHD. Tiến trình lượng cholesterol của một người có thể bị ảnh
hưởng bởi thức ăn, do đó có thể thay đổi được. Tuy nhiên các yếu tố di truyền
cũng ảnh hưởng lớn đến bệnh và không thay đổi được. Ăn quá nhiều chất béo tổng
hợp, chất béo no, và một vài loại sữa có cholesterol cao sẽ làm gia tăng lượng
Cholesterol tổng và tăng LDL (tỷ trọng thấp lipoprotein ở mức độ nặng).
Các
nghiên cứu chỉ ra các loại chất béo khác nhau có tác động khác nhau đến tiến
trình cholesterol trong máu. Chất béo no làm tăng nhiều nhất lượng cholesterol
trong máu. Tuy nhiên các chuỗi acid béo no dài - phần quan trọng trong nhóm
acid béo gây ảnh hưởng lớn đến lượng cholesterol. Các chuỗi ngắn và vừa (từ 10 carbon
trở xuống) được hấp thụ bởi một cơ chế khác so với các chuỗi acid béo dài, và
có ít tác động đến lượng cholesterol trong máu. Nhóm acid béo 18 Carbon (acid
stearic) có ít tác động đến lượng cholesterol trong máu. Nhóm acid béo 16
carbon (acid palmitic), 14 carbon (acid myristic) và 12 carbon (acid lauric) có
tác động mạnh nhất đến việc gia tăng lượng cholesterol trong máu. Các acid béo
không no đơn có tác động trung lập với cholesterol trong máu và acid béo không
no đa có tác động làm giảm lượng cholesterol trong máu. Các acid béo không no
dạng trans tăng lượng cholesterol trong máu. Những người khác nhau có phản ứng
khác nhau với lượng cholesterol trong sữa – nó có thể tăng lượng cholesterol
trong máu hoặc không gây ảnh hưởng gì, thậm chí có người còn có thể giảm một
cách tự nhiên (nội sinh) lượng cholesterol trong cơ thể.
Chất
béo trong sữa có lượng acid béo nó cao, với xấp xỉ 65% là các acid béo no. Chất
béo trong sữa thường có khoảng 10% là các acid béo có độ dài Carbon từ 10 trở
xuống, 4% acid lauric (12 Carbon), 10% acid myristic (14 carbon), 27% acid
palmitic (16 carbon) và 14% acid stearic (18 carbon). Chất béo trong sữa có
khoảng 30% là các acid béo no đơn và 5% là acid béo no đa. Liên quan đến
cholesterol trong máu, chỉ có acid palmitic, myristic và lauric là tác nhân,
như vậy khoảng 41% lượng chất béo trong sữa gây ra gia tăng nồng độ cholesterol
chứ không phải là cả 65% lượng acid béo no gây ra việc này.
Uống
sữa gầy, sữa giảm béo được khuyến khích để giảm các nguy cơ tim mạch. Các bài
viết học thuật sâu về vấn đề này có thể tìm tại đây: Lovegrove and Jackson (2004), Mensink (2006), Miller et al. (1999), và Reddy and Katan (2004).
Sữa và sâu răng
Sâu
răng xảy ra khi men răng bị mất hàm lượng khoáng chất của nó (hiện tượng khử
khoáng) gây ra các lỗ trên bề mặt răng. Nước bọt bảo vệ răng khỏi sâu răng bằng
cách duy trì lượng pH cân bằng (khoảng 7) trong miệng và bằng vieecjc ung cấp
liên tục calcium và phosphorus cho men răng (tạo khoáng). Sâu răng xảy ra khi
khử khoáng cao hơn tạo khoáng trên bề mặt răng. Quá trình lên men của đường bở
các vi khuẩn trong miệng gây ra việc hình thành các acid, làm giảm độ pH (còn
khoảng 5.5) làm tăng khử khoáng men răng. Từ lâu người ta đã biết ăn đường là
nguyên nhân dẫn đến sâu răng.
Sữa
có chứa đường lactose, nhưng lactose không có nhiều ảnh hưởng đến sâu răng như
các loại đường khác. Sử dụng các thành phẩm từ sữa, đặc biệt là phomat được chỉ
ra là có tác động tích cực đến việc chống lại sâu răng. Mặc dù cơ chế của
phomat bảo vệ khỏi sâu răng là chưa rõ ràng, protein, calcium và phosphorus
trong sữa đều góp phần vào việc này. Protein trong sữa chứa lượng lớn calcium
và phosphorus, do đó tăng lượng khoáng chất này trên răng miệng trong quá trình
tạo khoáng. Người ta cũng nghĩ rằng việc sử dụng sữa và phomat tạo ra một hiệu
ứng hỗ trợ nồng độ pH trong miệng, chống lại sự giảm pH ở ngưỡng xảy ra việc
khử khoáng (pH 5.5). Thanh trùng sữa không ảnh hưởng đến các chức năng của
protein, calcium và phosphorus trong sữa.
Các
bài viết học thuật về vấn đề này: Miller et al. (1999), Moynihan and Petersen (2004).
Sữa và bệnh tiểu đường
Tiểu
đường là một bệnh liên quan đến chuyển hóa carbohydrate. Tiểu đường loại 1 là
không có khả năng sản xuất insulin, được điều trị bằng tiêm thêm insulin. Tiểu
đường loại 1 thường xảy ra ở thời thơ ấu. Tiểu đường loại hai là sản xuất
insulin không đủ, thường xảy ra với người lớn, và có thể được kiểm soát thông
qua ăn uống và tập thể dục.
Có
nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng uống sữa gây ra bệnh tiểu đường ở người trẻ (loại
1) Tuy nhiên dữ liệu nghiên cứu chưa đủ rộng, và cần thêm nhiều nghiên cứu về
việc sử dụng sữa thành phẩm với tiểu đường loại 1. Có ít nghiên cứu đánh giá
ảnh hưởng của sữa đến tiểu đường loại 2. Một vài nghiên cứu đánh giá tác động
của toàn bộ chế độ ăn đối với tiểu đường và kết luận những người uống nhiều sữa
ít bị tiểu đường loại 2. Mặc dù cơ chế của việc này vẫn chưa được biết, nhưng
cũng có thể do calcium trong sữa – có khả năng chống lại cao huyết áp – cũng sẽ
có khả năng chống lại tiểu đường.
Các
bài viết học thuật về vấn đề này : Choi et al. (2005), Mensink (2006), Schrezenmeir and Jagla (2000).
Sữa và cao huyết áp
Cao
huyết áp được đặc trưng bởi việc tăng cao trong áp lực máu. Huyết áp cao tăng
nguy cơ bệnh tim mạch vành, đột quỵ và bệnh thận. Các nhân tố gây ra cao huyết
áp bao gồm béo phì, ít vận động, ăn nhiều natri…
Các
nhân tố của sữa thành phẩm đã được nghiên cứu làm giảm huyết áp như Calcium,
Kali và Maggie. Calcium và Kali được đánh giá trong những năm 1980 là dinh dưỡng quan trọng nhất để giảm huyết
áp. Sữa là nguồn cung cấp Ca, Mg, K tốt. Sữa giảm béo đã được sử dụng thành
công trong các nghiên cứu về sự phối hợp của các khoáng chất này trong việc
giảm cao huyết áp.

Các
bài viết học thuật về lợi ích của canclim, Kali, maggie, và peptides được kích
hoạt sinh học trong sữa làm giảm huyết áp: Huth et al. (2006), Miller et al. (1999), Miller et al. (2000).
Sữa và không dung nạp lactose
Vấn
đề không dung nạp lactose gây ra đầy hơi, đau bụng và phân lỏng. Nhiều người
coi đó là triệu chứng của sự không dung nạp lactose, nhưng có vài quan điểm
trong vấn đề này cần được làm rõ. Lactose là một loại đường có duy nhất trong
sữa, nó cần enzyme lactase (ß-galactosidase) để tiêu hóa. Tất cả mọi người, với
một lượng rất nhỏ ngoại lệ, đều có khả năng bẩm sinh trong việc tạo đủ lượng
lactase trong hệ tiêu hóa. Sữa là thực phẩm duy nhất mà trẻ sơ sinh nhận được
nên cơ thể của trẻ phải có khả năng tiêu hóa lactose để hấp thụ các năng lượng
cần thiết cho việc lớn lên và phát triển cơ thể. Khi người ta lớn, khả năng sản
xuất lactase giảm xuống, đó là một tình trạng gọi là lactase nonpersistence (bất
ổn định lactase). Tất cả mọi người, kể cả vào tuổi trưởng thành, duy trì một số
hoạt động lactase trong ruột. Những người bị triệu chứng này được mô tả như là
dung nạp một lượng sữa thành phẩm vượt quá lượng lactase có thể hấp thụ trong
cơ thể - và việc này được gọi là kém hấp thu lactose. Thuật ngữ “Không dung nạp
lactose” được sử dụng cho các triệu chứng như trên.
Cần
phải làm rõ là sữa tươi không có lactase. Lactase có thể xuất hiện trong sữa
thành phẩm, nhưng nó xuất phát từ các khuẩn của acid lactic, được đưa vào có
chủ ý trong quá trình lên men hoặc nhiễm khuẩn trong không khí, hoặc nhiễm
khuẩn khác. Cugnx cần phải nói rõ là thanh trùng không ảnh hưởng đến lactose,
và sữa thanh trùng cũng không phải là khó hay dễ hấp thu hơn sữa tươi, nó giữ
nguyên lượng lactose như sữa tươi.
Mỗi
người khác nhau có các khả năng khác nhau trong việc tiêu hóa lactose, mức độ
nghiêm trọng trong triệu chứng và quan điểm của họ về các triệu chứng. Có một
lượng nghiên cứu đáng kể được thực hiện trên chủ đề này. Các nước có ngành công
nghiệp sữa kém phát triển có tỷ lệ lớn hơn những người kém hấp thu lactose so
với các nước có ngành công nghiệp sữa phát triển. Sự kém hấp thu lactose ở các
khu vực như sau: gần 100% với Châu Á, 50% với Nam Mỹ và Châu Phi, 53% với người
Mỹ gốc Mexico, và 80% với người Mỹ gốc Phi (Vesa et al., 2000)
Vấn
đề về không dung nạp và kém hấp thu lactose là một vấn đề nhạy cảm. Mặc dù
nhiều người nghĩ họ kém hấp thu lactose, họ thường vẫn có thể tiêu hóa một
lượng lactose hạn chế. Một vài người nhạy cảm hơn với các bệnh đầy hơi, đau
bụng có thể cảm nhận được các triệu chứng nặng hơn. Các triệu chứng không chính
xác về việc tiêu hóa kém sữa có thể bị gây ra bởi các rối loạn đường ruột khác.
Nhiều người coi mình không dung nạp lactose và tránh các sản phẩm từ sữa mà sự
thật là họ vẫn có thể đưa sữa vào khẩu phần ăn của họ. Việc tránh sử dụng sữa
trong thời gian dài, do nghĩ là kém hấp thu lactose có thể dẫn đến giảm lượng
calcium, Kali, maggie, các khoáng chất và vitamin khác và có thể dẫn đến các
vấn đề về xương, tăng huyết áp và các rối loạn khác.

Các
bài viết học thuật về kém hấp thụ lactose hoặc không dung nạp lactose: Miller et al. (1999), Vesa et al. (2000), and Savaiano et al. (2006).
Sữa – loãng xương và sức khỏe của xương
Loãng
xương là bệnh có đặc trưng là giảm khối lượng xương trong cơ thể và suy thoái
các mô xương dẫn đến tăng nguy cơ gãy xương. Các yếu tố ảnh hưởng đến loãn
xương bao gồm gene, giới tính, chủng tộc, thể dục và ăn uống, và thường xảy ra
ở người có tuổi. Mỗi cá nhân có một khối lượng đỉnh của xương, là khối lượng
tối đa của xương mà một người có thể đạt được. Khối lượng đỉnh tích lũy này
càng cao thì khả năng loãng xương càng thấp. Khối lượng đỉnh tích lũy gần đủ từ
tuổi 20, và đến tuổi 30 là đạt cao nhất. Kích cỡ của bộ xương ảnh hưởng đến khả
năng loãng xương. Thông thường phụ nữ dễ loãng xương hơn đàn ông vì bộ xương
của họ nhỏ hơn.Người da trắng và da vàng có bộ xương nhỏ hơn người da đen – là
những người ít bị loãng xương hơn. Estroen là một hormon có khả năng bảo vệ
xương khỏi bị mất và phụ nữ thường bị giảm xương nhanh trong giai đoạn tiền mãn
kinh và những năm đầu thời kỳ mãn kinh (giai đoạn lượng estrogen giảm). Các bài
tập nâng tạ trong suốt cuộc đời sẽ tăng tải lên các bộ xương làm giảm nguy cơ
loãng xương.

Một
thực tế không thể chối cãi là tích lũy đến khối lượng đỉnh của xương từ thời
nhỏ là phương pháp chống loãng xương hữu hiệu nhất. Lượng calcium đầy đủ trong
thời gian này là tối quan trọng. Loãn xương có thể là một bệnh đáng sợ cho
người có tuổi nhưng tiền đề của nó đã diễn ra từ thời nhỏ.
Lượng calcium đầy đủ
trong suốt cuộc đời sẽ cung cấp đủ khoáng chất cần thiết để tạo xương và làm
chậm quá trình giảm xương. Nguồn thức ăn quan trọng nhất cung cấp calcium là từ
sữa thành phẩm. Calcium có thể được hấp thụ từ các nguồn khác, ví dụ như rau lá
xanh, các thực phẩm được bổ sung thêm calcium, và các thực phẩm cung cấp
calcium khác.. Tuy nhiên các sản phẩm bổ sung thêm calcium có lợi ích trong
việc cung cấp vitamin D, là một chất giúp xương hấp thụ calcium và các thành
phần quan trọng khác cho việc chuyển hóa xương như phosphorus, protein, maggie
và kẽm. Sữa thành phẩm chứa nhiều calcium trên một suất ăn hơn các loại thực
phẩm khác. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng những người tiêu thụ calcium nhiều hơn
có tỷ lệ gãy xương thấp hơn, và calcium thường đến từ sữa thành phẩm. Mỗi người
nên uống 3 cốc sữa mỗi ngày để cung cấp đủ calcium cho xương.
Các
bài viết học thuật cho vấn đề này: Bonjour (2005), Cashman (2006), Heaney (2000), Heaney and Weaver (2006), Huth et al. (2006), Miller et al. (1999), Nicklas (2003), and Prentice (2004).
Lợi
khuẩn được định nghĩa là các khuẩn sống cung cấp các lợi ích về sức khỏe khi
hấp thụ một lượng đủ. Lợi khuẩn có thể được đưa vào cơ thể ở dạng bột, thuốc
hoặc một loại thức ăn, mà được gọi là “thực phẩm chức năng”. Nhiều lợi khuẩn là
các khuẩn acid lactic, tức là chúng có thể sử dụng lactose như một nguồn năng
lượng, và do đó có thể kết hợp với sữa thành phẩm. Sữa chua thường được kết hợp
với lợi khuẩn vì các khuẩn được sử dụng khi lên men sữa chua là các lợi khuẩn,
và nó là một thực phẩm dinh dưỡng đầy đủ mà có khả năng duy trì các lợi khuẩn
được đưa vào giúp ích cho sức khỏe con người. Tất cả các loại sữa chua được làm
từ sữa thanh trùng trước khi lên men, và do đó các lợi khuẩn sống cho đến khi
con người tiêu thụ. Một vài loại sữa chua có thể được thanh trùng sau khi lên
men, và điều này sẽ làm các lợi khuẩn ngừng hoạt động. Một mục tiêu quan trọng
của việc sử dụng lợi khuẩn là những lợi khuẩn này sẽ đi đến đúng nơi mà nó có
ích, với một lượng lợi khuẩn đủ để tạo ra các lợi ích này. Tuy nhiên lượng lợi
khuẩn cần cho sức khỏe vẫn chưa tính toán được vì nhiều nguyên nhân, vì các tài
liệu về vấn đề này còn quá ít và cần phải nghiên cứu thêm. Số lượng lợi khuẩn
còn sống có thể hoặc không được nêu ra trong các thực phẩm chức năng và các sản
phẩm cung cấp lợi khuẩn, điều này phụ thuộc vào nhà sản xuất muốn hay không.
Lợi
ích chính của lợi khuẩn là cho đường tiêu hóa. Lợi khuẩn nâng cao năng lực của
đường tiêu hóa, giảm các triệu chứng không dung nạp lactose, giúp điều trị tiêu
chảy, bệnh viêm ruột, hội chứng ruột kích thích và chống ung thư đại tràng. Lợi
khuẩn cũng làm nâng cao hệ thống miễn dịch, giảm bớt một số phản ứng dị ứng.
Ngoài ra, một số dấu hiệu cho thấy lợi khuẩn có thể đóng vai trò trong việc ức
chế Heliobacter pylori nhiễm trùng gây viêm loét, và trong việc duy trì sức
khỏe của âm đạo.
Nhiều
vi khuẩn đã được phát hiện và được sử dụng làm lợi khuẩn. Tuy nhiên lợi ích đưa
ra thường cụ thể cho từng loại vi khuẩn, và có thể được cụ thể hóa cho thậm chí
từng chủng cá nhân trong các loại vi khuẩn. Streptococcus thermophilus và Lactobacillus
bulgaricus là các loại vi khuẩn
chính sử dụng trong sản xuất sữa chua và sản sinh ra lượng lactasegiups
hấp thụ lactose ở người gặp vấn đề về dung nạp lactose. Lợi khuẩn họ nhà Lactobacillus cụ
thể là L. acidophilus, L. bulgaricus, L. casei, L.
rhamnosus, L. reuteri, andStreptococcus thermophilus and Sacchromyces
boulardii giảm bơt thời gian
và mức độ nghiêm trọng của tiêu chảy do rotavirus và sử dụng kháng sinh ở trẻ
em và bệnh tiêu chảy khi đi du lịch. Lactobacillus and Bifidobacteria có thể giúp điều trị đau bụng, đầy hơi và
các bất thường liên quan đến kích thích ở ruột, các dạng viêm kết hợp với viêm
ruột như viêm loét tá tràng và bệnh Crohn. Cơ chế của các lợi ích này rất khác
nhau tùy theo từng bệnh, và nhiều trường hợp vẫn chưa được biết rõ. Lợi khuẩn
có thể giúp tái lập lại sự cân bằng của hệ vi sinh đường ruột, kihcsh thích sự
phối hợp của các vi khuẩn có ích trong cơ thể, thay đổi độ pH của đường tiêu
hóa, sản xuất lactase, kích thích hoạt động của các enzyme khác, sản xuất ra
các chất kháng khuẩn như bacteriocin và các acid hữu cơ, thay đổi tính thấm của
niêm mạc ruột, kích thích hệ miễn dịch và các phản ứng kháng thể.
Cần
nói rõ là lĩnh vực về lợi khuẩn là một lĩnh vực rất sôi nổi, và các nghiên cứu
rộng hơn trong lĩnh vực này đang rất cấp thiết. Các bài viết về học thuật: Fondén et al. (2004), Kirjavainen (2004), Parvez et al. (2006), Santosa et al. (2006), and Shanahan (2004) .

Những
nguy hiểm khi sử dụng sữa tươi là thật, và những người uống sữa tươi nên tự đưa
ra quyết định cho mình dựa trên những lợi ích và nguy hiểm khi uống sữa tươi.
Tác nhân gây bệnh đến từ môi trường nông nghiệp có thể xuất hiện trong sữa, kể
cả những con bò khỏe mạnh, sữa được sản xuất trong điều kiện vệ sinh thì những
vấn đề này vẫn có thể xuất hiện. Các loại tác nhân gây bệnh và tỷ lệ của chúng
được thảo luận trong mục “Mối quan ngại về các vi khuẩn trong sữa” trong
website này. Người lớn sức khỏe tốt có thể uống sữa tươi mà không gặp vấn đề
gì, nhưng chính sữa đó lại có thể gây bệnh cho trẻ em, người gia và những người
có hệ miễn dịch yếu. Một mối quan tâm đặc biệt là việc cho trẻ em uống sữa tươi
– trong khi trẻ em là những thành phần chưa nhận thức đầy đủ về các vấn đề về
sức khỏe và không tự đưa ra quyết định cho mình. Đã có những thời điểm dịch
E.coli O157:H7 bùng phát ở trẻ nhỏ sử dụng sữa tươi, dẫn đến hội chứng Ure
huyết, tán huyết, gây suy thận, giảm tuổi thọ hoặc tử vong. Những mối nguy hiểm
này nên được tránh từ đầu.
Có
các phong trào uống sữa tươi vì nhận thức về lợi ích về sức khỏe của sữa tươi
so với sữa thanh trùng. Người ta khuyên rằng sữa tươi dễ tiêu hóa hơn, nhất là
cho những người gặp vấn đề về dung nạp lactose, vì các enzyme trong sữa tươi sẽ
bị vô hiệu quá sau quá trình thanh trùng. Tuy nhiên, như đã nói ở các phần trên
về “không dung nạp lactose”, không
có lactase trong sữa tươi. Lactase có thể xuất hiện trong lợi khuẩn acid lactic
được đưa vào một cách có chủ ý để lên men sữa, hoặc là do nhiễm khuẩn từ môi
trường bên ngoài. Các enzyme được sử dụng để tiêu hóa thức ăn được tìm thấy ở
miệng, dạ dày và chủ yếu trong ruột của người – enzyme trong thực phẩm đóng một
vai trò không đáng kể trong việc tiêu hóa.

Có
ý kiến cho rằng sữa tươi thì có vị chua, còn sữa thanh trùng thì có vị thối,
Sữa có vị chua vì khuẩn acid lactic xuất hiện trong sữa qua không khí hoặc qua
các môi trường nhiễm khác. Những khuẩn này không xuất hiện trong suwaxtuwowi
ngoại từ sữa bò khi bò bị nhiễm trùng ở vú (gọi là viêm vú). Một cách giải
thích có thể chấp nhận là khi điều kiện vệ sinh trong sản xuất sữa được đảm
bảo, sữa ít tiếp xúc với không khí hơn, do đó khuẩn acid lactic ít xuất hiện
trong sữa thanh trùng.
Có
ý kiến cho rằng sữa tươi có hệ thống chống khuẩn bảo vệ chống lại các tác nhân
gây bệnh, và các chống khuẩn này bị vô hiệu hóa do thanh trùng. Lactoperoxidase
là một enzyme trong sữa có khả năng kháng khuẩn khi gặp hydrogen peroxide – là
chất không xuất hiện trong sữa. Hệ thống này sẽ được bàn luận sâu hơn ở mục “Thuộc tính kháng khuẩn của sữa” trong website này
Một
số chủ đề trong mục này đã chỉ ra lợi ích của uống sữa tươi, nhưng nó dựa trên
các nghiên cứu từ những năm 1900 đến năm 1950 khi mà chế độ ăn uống và thuốc
kém phát triển hơn bây giờ nhiều, và thanh trùng thì không phổ biến lắm. trong
khi Mỹ bắt đầu công nghiệp hóa và con người chuyển dần từ các trang trại sang
các thành phố, quy trình sản xuất sữa trở nên phổ biến hơn, và việc thanh trùng
là cần thiết trong việc giảm thiểu các nguy hiểm cho sức khỏe, giữ sữa khỏi bị
hỏng. thanh trùng không được sử dụng rộng rãi ở Mỹ cho đến những năm 1960.
Thanh trùng làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc các bệnh liên quan đến uống sữa như
thương hàn, tiêu chảy…
0 nhận xét:
Đăng nhận xét