Định nghĩa Phomat

Phomat có
thể được làm từ sữa thanh trùng hoặc sữa tươi nguyên chất. Phomat sữa tươi
nguyên nhất cung cấp các hương vị và kết cấu khác nhau khi nó đã hoàn thành. Với
một số loại phomat,sữa tươi nguyên nhất được xử lý nhiệt nhẹ (dưới nhiệt độ
thanh trùng) trước khi làm phomat để tiêu diệt một số vi khuẩn gây ôi thiu, và
mang đến điều kiện tốt hơn cho việc cấy vi khuẩn làm phomat. Phomat làm từ sữa
tươi phải có tuổi ít nhất 60 ngày – theo quy định của CFR, mục 7 CFR 58.439, để
giảm khả năng tiếp xúc với các mầm bệnh gây ra bởi các vi khuẩn có thể xuất hiện
trong sữa. Với một số loại phomat thì nó phải có tuổi lớn hơn 60 ngày.
Phomat có
thể được phân loại như là phomat acid hoặc phomat rennet, phomat tự nhiên hoặc
phomat theo quy trình. Phomat acid được làm từ việc cho thêm Acid vào sữa làm
cho protein trong sữa đông lại. Phomat tươi (như phomat kem hoặc queso fresco)
được làm từ quá trình acid hóa trực tiếp. Tất cả các loại phomat như cheddar hoặc
Swiss, sử dụng rennet (một enzyme) cấy
vào để làm đông sữa. Thuật ngữ “phomat tự nhiên” là một thuật ngữ trong sản xuất
để chỉ các phomat làm trực tiếp từ sữa. Process Phomat được làm bằng việc sử dụng
phomat tự nhiên và cho thêm các nguyên liệu, rồi nấu chúng với nhau để thay đổi
kết cấu, điểm hóa lỏng và gia tăng thời gian sử dụng
Nguyên liệu
chính làm phomat là sữa. Sữa được vắt từ bò, dê, cừu, trâu, hoặc các hỗn hợp từ
các loại sữa này.
Các loại
chất tạo đông sử dụng tùy thuộc vào loại phomat muốn làm. Với phomat acid, một
nguồn cung cấp acid như acid acetic (trong dấm) hoặc gluconodelta-lactone được
sử dụng. Với Phomat rennet, rennet được lấy từ bụng từ bê hoặc thông dụng hơn,
được tạo từ xử lý sinh học vi khuẩn. Calcium chloride đôi khi được đưa vào
phomat để tăng cường khả năng đông đặc của sữa
Hương liệu
có thể được đưa vào theo từng loại phomat. Một số nguyên liệu thông dụng như thảo
dược, gia vị, tương ớt ngọt và cay, cải ngựa và rượu vang đỏ
Các vi
khuẩn được cấy vào trong sữa để làm phomat có tên gọi là vi khuẩn acid lactic
(LAB) vì nguồn cung cấp năng lượng chính cho chúng là lactose trong sữa, và
chúng tạo ra các sản phẩm chuyển hóa là acid lactic. Có nhiều loại vi khuẩn hiện
đang được sử dụng để cung cấp hương vị độc nhất cho phomat và cấu trúc riêng biệt
cho từng lại. Tham khảo thêm vấn đề này tại đây Fox
(2004),Kosikowski and Mistry (1997), and Law
(1997).
Việc cấy
thêm vi sinh vật được sử dụng sớm trong việc làm phomat để hỗ trợ việc đông tụ
sữa thông qua giảm độ pH trước trước khi enzyme rennet được đưa vào. Việc chuyển
hóa của các cấy khuẩn đóng góp hương vị kỳ vọng, và giúp tránh sự sinh trưởng của
các vi sinh vật gây ôi thiu và mầm bệnh. Các cấy khuẩn thông dụng gồm Lactococcus lactis subsp, lactis or cremoris, Streptococcus
salivarius subsp.thermophilus, Lactobacillus
delbruckii subsp. bulgaricus, và Lactobacillus
helveticus.
Các cấy
khuẩn phụ trợ được đưa vào để gia tăng hương vị riêng biệt và hình dáng cho
Phomat. Các cấy khuẩn phụ trợ thường được đưa vào trong quá trình sản xuất bao
gồm Lactobacillus casei và Lactobacillus
plantarum tạo vị cho Phomat Cheddar, Propionibacterium
freudenreichii tạo các mắt cho phomat Swiss. Cấy khuẩn phụ trợ cũng
được sử dụng để làm sạch bên ngoài của phomat đã tạo hình, ví dụ như sử dụng
Brevibacterium linens cho phomat gruyere, brick và limburger.
Nấm men
và nấm mốc được sử dụng trong một số loại phomat tạo ra màu sắc và hương vị
khác nhau. Nấm men Turola được sử dụng bên ngoài phomat để làm chín Phomat
brick và limburger. Ví dụ về nấm mốc như penicillium camemberti trong phomat
camebert và brie, và penicillium roquefofti trong phomat blue.
Nhiệt độ,
thời gian, và độ pH mục tiêu cho từng bước khác nhau, kết quả của các bước xử
lý, việc sử dụng muối hoặc xông, việc hình thành khối, và biến thiên về thời
gian sử dụng giữa các loại phomat. Bảng tiến trình sau cung cấp một quy trình rất
tổng quan trong việc làm ra phomat, ở đây được ví dụ là phomat cheddar. Các tài
liệu tham khảo thêm về vấn đề này vui lòng tìm tại đây: Fox (2004), Kosikowski
and Mistry (1997), Law (1997), Walstra et al. (1999), và
website by www.foodsci.uoguelph.ca/dairyedu/cheese.html.
Tổng quan các bước
sản xuất phomat
· Làm mát sữa
· Cấy khuẩn gây lên men và khuẩn
không gây lên men rồi nấu chín
· Thêm rennet và chất đông tụ
· Cắt chất đông tụ và nhiệt độ
· Hút chất hòa tan
· Đông tụ thành hình
· Muối khô hoặc nước muối
· Bảo quản và thời hạn sử dụng
· Đóng gói
Thời gian,
nhiệt độ và độ pH mục tiêu sản xuất phomat cheddar sẽ phụ thuộc vào từng công
thứ riêng, và mục đích sử dụng cuối cùng của phomat đó. Những điều kiện có thể
được điều chỉnh để tối ưu hóa tính chất của phomat Cheddar cho việc băm nhỉ,
tan chảy, hoặc cho phomat có thể ủ được trong vài năm.
Sữa thường
được chuẩn hóa trước khi làm phomat để tối ưu lượng protein và chất béo, tao ra
một loại phomat chất lượng cao, năng suất cao
Tùy thuộc
vào loại phomat, sữa có thể được thanh trùng hoặc được xử lý nhiệt nhẹ để giảm
lượng vi khuẩn gây ôi thiu và tăng điều kiện môi trường cho cấy khuẩn lên men
sinh trưởng. Mối loại pho mát được làm từ sữa tươi nguyên chất không được thanh
trùng hoặc xử lý nhiệt. Pho mat làm từ Sữa tươi nguyên chất phải có tuổi không
dưới 60 ngày để giảm khả năng gây bệnh từ vi khuẩn có thể tồn tại trong sữa
Sữa được
làm mát sau khi thanh trùng hoặc xử lý nhiệt độ xuống ngưỡng 32°C để mang đến
nhiệt độ cần thiết cho việc sinh trưởng của các vi khuẩn. Nếu sử dụng sữa tươi
nguyên chất, nó phải được giữ ở nhiệt độ 32°C
Việc cấy
khuẩn lên men và không lên men được thực hiện với sữa và duy trì ở nhiệt dộ
32°C trong 30 phút để làm chín sữa. Quá trình làm chín sữa cho phép vi khuẩn
sinh trưởng và lên men, điều này làm giảm độ pH và tạo ra hương vị cho phomat.
Rennet là
một enzyme tác động đến protein trong sữa để tạo hình. Sau khi rennet được cho
vào, việc tạo hình phải được thực hiện liên tục trong 30 phút để tạo ra mình
hình dáng khối cứng
Các khối
được cho lên men khi đạt độ pH 6.4. Sau đó các khối được cắt ra bằng dao cắt
phomat thành các miếng nhỏ và làm ấm đến nhiệt độ 38°C. quá trình làm ấm này
giúp cho việc phân cách các chất tan trong khối phomat
Các chất
tan bị hút khỏi thùng đựng phomat và tạo thành một lớp màng mỏng như tấm thảm
Màng sữa
được cắt thành từng phần và xếp chồng lên các khối phomat rồi được lật đi lật lại.
Bước này gọi là dedaring. Cheddaring giúp việc trục xuất nhiều chất tan hơn,
giúp cho việc lên men tiếp tục cho đến khi độ pH đạt 5.1 hoặc 5.5, điều này làm
các lớp thảm sữa đan vào nhau và tạo thành một lớp thảm sữa khít hơn. Các lớp
thảm sữa này lại tiếp tục được cắt thành các miếng nhỏ hơn
Với
phomat cheddar, các miếng nhỏ hơn, đông hơn được đưa lại vào thùng chứa và được
cho thêm muối bằng cách rắc thêm muối vào sữa đông và trộn chúng lên. Khi làm một
số loại Phomat khác như mozzarella, sữa đông được tạo hình như một cái bánh và
cái bánh đó được cho vào dung dịch nước muối.
Các khối
phomat chứa muối sau đó được đặt vào trong một cấu trúc hình vòng, được ép để tạo
thành các miếng phomat
Phomat được
bảo quản ở nhiệt độ thấp hơn cho đến khi đạt được tuổi của phomat. Tùy thuộc
vào từng loại, phomat có độ tuổi từ vài tháng đến vài năm
Phomat có
thể được cắt nhỏ và đóng gói thành các miếng và có thể được phủ thêm xáp.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét