Trong
mục này mô tả chức năng của các thành phần dinh dưỡng trong sữa: Năng lượng,
nước, Carbonhydrate, Fat, Protein, Vitamin, Khoáng chất, Protein sinh học thiểu
số và các enzyme
Ấn
vào từng phần sẽ ra các nội dung con theo từng trang, mô tả cụ thể nội dung của
các thành phần đó.

Thực
phẩm cung cấp năng lượng cho cơ thể ở dạng năng lượng (kcal). Có nhiều thành
phần trong thức ăn cung cấp dinh dưỡng, nhưng chỉ có các chất dinh dưỡng
protein, carbohydrate, và chất béo cung cấp năng lượng. Giá trị năng lượng của
một thực phẩm được tính dựa trên lượng calories cung cấp từ protein
(4kcal/gram), carbohydrate (4kcal/gram) và chất béo (9kcal/gram) của thực phẩm
đó. Cần phân biệt rõ giữa năng lượng (energy) và dinh dưỡng (nutritent)

Nước
không cung cấp một lợi ích về dinh dưỡng theo cách mà protein hay vitamin cung
cấp. Tuy nhiên, nước là tối quan trọng cho sự trao đổi chất của con người. Nước
là thành phần chính trong cơ thể. Nước duy trì khối lượng máu, vận chuyển các
chất dinh dưỡng như glucose và oxy đi đến các mô và các cơ quan. Nước vận
chuyển chất thải ra khỏi mô và các cơ quan để loại bỏ chúng ra khỏi cơ thể.
Nước giúp bôi trơn khớp và đệm của các cơ quan trong quá trình di chuyển. Nước
duy trì thân nhiệt cơ thể thông qua tiết mồ hôi. Thiếu nước sẽ dẫn đến mệt mỏi,
suy giảm tinh thần, co thắt, giảm hiệu xuất hoạt động của các cơ bắp. Mất nước
trầm trọng có thể đe dọa đến tính mạng
4.9%
thành phần của sữa là Carbohydrate tồn tại ở dạng lactose. Nội dung về lactose
trong sữa được trình bày trong bảng danh sách dinh dưỡng trong sữa (the Nutrient Content Tables)

Lactose là một disaccharide tạo bởi glucose và galatose liên kết với
nhau. Trước khi nó được cơ thể sử dụng, liên kết này phải bị phá vỡ bởi enzyme
lactase trong ruột non. Những người suy giảm hoạt động của lactase trong ruột
non có thể gặp vấn đề trong việc tiêu hóa lactose và việc này dẫn đến bệnh không dung nạp lactose (lactose
intolerance) hoặc kém hấp thu
Khoảng
3.4% trong sữa là chất béo. Nội dung về chất béo trong sữa được trình bày trong
bảng danh sách dinh dưỡng trong sữa (the Nutrient Content Tables)
Chất béo là một thành phần cấu trúc của màng tế bào và hormone. Chất béo là nguồn năng lượng tập trung và là nguồn năng lượng chính được sử dụng trong cơ thể trong các hoạt động cường độ thấp và kéo dài liên tục trong hơn 90 phút. Chất béo là hình thức lưu trữ chính của các năng lượng dư thừa trong cơ thể. Chất béo được sử dụng làm đệm cho các cơ quan trong quá trình vận động của cơ thể
Có
2 loại acid béo được coi là thiết yếu mà cơ thể không sản xuất được mà phải thu
nhận từ thức ăn, và đó là acid linoleic (18:2) và linoleic (18:3) (xem Thành phần của sữa – Chất béo để
biết ý nghĩa của phương pháp ký hiệu số 18:2 và 18:3). Những acid béo này được
sử dụng để tổng hợp các chuỗi acid dài hơn arachidonic (AA, 20:4o-6), acid
docopentaenoic (DPA, 22:4o-6), acid eicosapentaenoic (EPA, 20:5o-3) và acid
docohexaenoic (DHA, 22:6o-3). Những acid béo trên là cần thiết cho việc tổng
hợp các Hormone như prostaglandins, thromboxanes, và leukotriences liên quan
đến việc co cơ, đông máu và miễn dịch. DHA không thể trực tiếp dung nạp vào cơ thể mà phải để cơ thể tổng hợp dựa
trên các acid này. Và các hãng sữa đang quảng cáo cung cấp DHA trực tiếp chỉ là
một chiêu bài Marketing đánh lừa mọi người.
Các
acid béo trong sữa có 65% là acid béo no, 29% là không no với một liên kết đôi,
và 6% là không no với nhiều liên kết đôi. Các axit béo không no, nhiều liên kết
đôi gồm một lượng nhỏ các acid thiết yếu linoleic và linolenic, và một lượng
xấp xỉ 5% là acid béo dạng trans. Một acid béo dạng trans quan trọng trong sữa
là Acid linoeic liên hợp (CLA, 18:2). Có nhiều dạng của CLA trong sữa đã được
chứng minh là giúp chống lại bệnh ung thư và duy trì khối lượng cơ nạc đồng
thời thúc đẩy sự giảm bớt chất béo trong cơ thể. Tác dụng về sức khỏe khi tiêu
thụ CLA được bàn đến trong phần Sữa và sức khỏe con người
Những
vấn đề về sức khỏe liên quan đến chất béo thường là do những khác biệt trong cấu trúc hóa học
của các acid béo. Axid béo nó và Acid béo không no dạng trans có liên quan đến
vấn đề cholesterol cao và các bệnh tim mạch. Tuy nhiên mối liên hệ này không
đơn giản. Chiều dài chuỗi của các acid béo và nguồn gốc của các liên kết không
no (xảy ra 1 cách tự nhiên hoặc do nhân tạo) có thể ảnh hưởng lớn đến tác động
về sức khỏe của chất béo cụ thể trong đồ ăn của con người. Thêm vào đó, yếu tố
di truyền và tình trạng sức khỏe của riêng bản thân người đó cũng ảnh hưởng lớn
đến việc tiêu thụ các loại chất béo khác nhau. Nội dung của chất béo và sức
khỏe là một vấn đề phức tạp và liên tục được cập nhật trong các tài liệu về y
học. Các vấn đề liên quan đến chất béo trong sữa được trình bày trong mục “Sữa và sức khỏe con người”
Nội
dung về Cholesterol trong sữa được trình bày trong Bảng danh sách dinh dưỡng trong sữa (the Nutrient Content Tables). Cholesterol là một thành phần quan trọng của
màng tế bào và như là một nguyên liệu ban đầu để sản xuất muối của mật và
hormone steroid. Cơ thể con người sinh ra cholesterol để đảm bảo một lượng
cholesterol thích hợp luôn có sẵn để thực hiện các chức năng trong cơ thể.
Lượng cholesterol cao trong máu sẽ dẫn đến sự gia tăng các bệnh về tim mạch.
Vấn đề này cũng được nêu ở mục “Sữa và Sức khỏe con người”
Protein
trong sữa chiếm khoảng 3.3% và bao gồm nhiều Acid Amin thiết yếu. Nội dung về
các loại Protein trong sữa được trình bày trong Bảng danh sách dinh dưỡng trong sữa (the Nutrient Content Tables).
Protein
là các viên gạch cơ bản để hình thành cơ bắp, da, tóc và các thành phần tế bào.
Cơ bắp cần có Protein để hoạt động phối hợp với nhau và thư giãn, sửa chữa các
mô hư hỏng. Protein đóng vai trò tối quan trọng trong nhiều hoạt động của cơ
thể như Enzyme, Horone và kháng thể. Protein cũng có thể được sử dụng như nguồn
cung cấp năng lượng cho cơ thể.
9
Acid Amin chỉ có thể được hấp thụ từ thức ăn và được gọi là các Acid Amin thiết
yếu: Leucin, isoleucine, valine, phenylalanine, tryptophan, histidine,
threonine, methionine, và lysine. Các loại Protein mà chứa cả 9 loại Acid Amin
nói trên thường được gọi là Protein hoàn chỉnh. Protein từ động vật và đậu nành
là các Protein hoàn chỉnh, trong khi Protein từ ngũ cốc hoặc các cây họ đậu thì
thiếu 1 hoặc vài Acid Amin hoàn chỉnh, tức là người dùng sẽ phải ăn thêm thức
ăn bổ sung để có đủ các acid amin thiết yếu.

Whey
protein trở thành nguyên liệu phổ biến trong thực để bổ sung protein hoặc các
chứng năng khác. Whey protein cung cấp lượng protein cao trong các đồ uống và
lương khô cho các vận động viên thể thao. Whey protein cũng được sử dụng để giữ
nước trong thịt và giò chả, tạo một lớp vỏ màu nâu khi làm bánh mì, cung cấp một dạng chất làm kem đánh có thể thay thế
lòng trắng trứng
Whey
protein chứa immonoglobulin là một thành phần quan trọng trong hệ miễn dịch của
con người. Whey protein có chứa các acid amin phân nhánh (leucine, isoleucine,
và valine) đã được chứng minh là có tác động tốt đến sự hồi phục cơ, ngăn ngừa
mệt mỏi tinh thần cho các vận động viên.
Vitamin
đóng nhiều vai trò trong cơ thể bao gồm sự trao đổi chất, đồng hóa, vận chuyển
ô xy và chống ô xy hóa. Chúng giúp cơ thể sử dụng carbohydrate, protein và chất
béo. Thành phần các vitamin trong sữa trình bày trong Bảng danh sách dinh dưỡng trong sữa (the Nutrient Content Tables)
Vitamin
A trong sữa là một vitamin hòa tan trong chất béo liên quan đến thị giác, biểu
hiện gene, sinh sản và miễn dịch. Các thành phần hoạt động cùng với Vitamin A
gọi là retinoid và được tìm thấy trong thức ăn ở nhiều dạng - Thịt cung cấp retinoid và este retinyl, và
rau quả cung cấp ß-carotene, phân tử khởi đầu (tiền thân) cho sự tổng hợp
Vitamin A. Sữa có chứa retinol, este retinul, và ß-carotene. Sữa thành phẩm là
nguồn cung cấp Vitamin A tốt, lượng Vitamin A sẽ thay đổi khi lượng chất béo
trong sữa thay đổi. 100ml sữa 2% béo cung cấp xấp xỉ 6.6% lượng vitamin A cần
bổ sung hàng ngày.

Riboflavin (B2) là một vitamin hòa tan trong nước, là một đồng yếu
tố của enzyme kết hợp với các electron tham gia vào các hoạt động phản ứng mô.
Sữa là một nguồn cung cấp B2 tốt và được khuyến nghị. 100ml sữa béo 2% cung cấp
xấp xỉ 15.3% lượng B2 cần bổ sung hàng ngày
Niacin (B3) là một Vitamin hòa tan trong chất
béo, là một đồng yếu tố của enzyme tham gia vào quá trình vận chuyển electron
cần thiết cho quá trình chuyển hóa năng lượng. Có một lượng nhỏ B3 trong sữa,
100ml sữa béo 2% cung cấp ít hơn 1% lượng B3 cần bổ sung hàng ngày
Pantothenic (B5) là một vitamin hòa tan trong nước, là một đồng
yếu tố của enzyme trong quá trình chuyển hóa acid béo. Sữa là nguồn cung cấp B5
tốt. 100ml sữa béo 2% cung cấp xấp xỉ 7.4% lượng B5 cần bổ sung hàng ngày
Pyridoxine (B6) là một vitamin hòa tan trong
nước, tham gia vào quá trình chuyển hóa protein và glycogen (năng lượng được
tích trức trong gan và cơ bắp), và chuyển hóa sphingolipid trong hệ thần kinh.
100ml sữa 2% béo cung cấp 3.1% lượng B6 cần bổ xung hàng ngày.
Cobalamin (B12) là một vitamin hòa tan trong
nước tham gia vào quá trình chuyển hóa protein và hoạt huyết. Sữa là nguồn cung
cấp B12 được khuyến nghị. 100ml sữa béo 2% cung cấp xấp xỉ 20.6% lượng B12 cần
bổ sung hàng ngày.

Vitamin
D là một vitamin hòa tan trong chất béo và nó đóng vai trò quan trọng trong
việc duy trì lượng Calcium trong máy và cân bằng phosphorus, hỗ trợ chuyển hóa
Calcium. Sữa thường được bổ xung thêm Vitamin D. Sữa bổ xung Vitamin D là nguồn
cung cấp Vitamin D tốt. 100ml sữa béo 2% cung cấp xấp xỉ 22% lượng Vitamin D
cần bổ sung hàng ngày.
Vitamin E là một vitamin hòa tan trong chất béo,
đóng vai trò trong việc chống Ô xy hóa. Các thành phần có tính năng Vitamin E
là các tocopherol và tocotrienol. Vitamin E
không phải là tên gọi cho một chất hóa học cụ thể, mà chính xác hơn là cho bất
kỳ chất nào có trong tự nhiên mà có tính năng vitamin E trong dinh dưỡng. Sữa
chứa một lượng nhỏ Vitamin E, và lượng này sẽ tăng khi lượng chất béo trong sữa
tăng. 100ml sữa 2% béo cung cấp khoảng 0.4% lượng Vitamin E cần bổ sung hàng
ngày.
Folate là một loại vitamin B tan trong nước.
Folate là một đồng yếu tố của Enzyme quan trọng trong việc chuyển hóa protein
và Acid nucleic và hoạt hóa máu. Có một lượng nhỏ Folate trong sữa. 100ml sữa
béo 2% cung cấp khoảng 1.3% lượng Folate cần bổ sung hàng ngày
Vitamin K là một loại vitamin hòa tan trong chất béo, tham gia vào
quá trình đông máu, chuyển hóa xương và tổng hợp protein. Sữa có một lượng nhỏ
vitamin K, lượng này tăng lên khi hàm lượng chất béo trong sữa tăng lên. 100ml
sữa cung cấp ít hơn 0.4% lượng vitamin K cần bổ sung hàng ngày
Khoáng
chất có nhiều vai trò trong cơ thể bao gồm hoạt hóa enzyme, hình thành xương,
duy trì cân bằng lượng nước, và vận chuyển oxy trong cơ thể. Chúng giúp cơ thể
sử dụng carbohydrate, protein và các chất béo. Thành phần các khoáng chất trong
sữa được trình bày trong Bảng danh sách dinh dưỡng trong sữa (the Nutrient Content Tables)
Calcium đóng vai trò thiết yếu trong việc hình thành xương, trao
đổi chất, co cơ, dẫn truyền thần kinh và đông máy. Sữa thành phẩm cung cấp một
lượng đáng kể Calcium cho bữa ăn. Sữa là thực phẩm khuyến cáo là nguồn cung cấp
calcium. 100ml sữa béo 2% cung cấp khoảng 13% lượng Calcium cần bổ sung hàng
ngày.
Đồng
là một thành phần được enzyme sử dụng để chuyển hóa sắt. Sữa chứa một lượng
đồng nhỏ - 1.6% với 100ml sữa 2% béo so với nhu cầu hàng ngày
Sắt là một thành phần của máu và nhiều enzyme.
Nó tham gia vào quá trình chuyển hóa máu và vận chuyển oxy. Sữa chứa một lượng
nhỏ sắt – 0.3% trong 100ml sữa 2% béo so với nhu cầu hàng ngày.
Manganese (măng gan) tham gia vào quá trình hình thành xương, và ở
trong enzyme, nó tham gia để tạo các Acid amin, cholesterol, chuyển hóa
carbohydrate. Có một lượng nhỏ Mangan trong sữa, khoảng 0.4% với 100ml sữa 2%
béo.
Phosphorus tham gia vào quá trình duy trì độ pH cho cơ thể, lưu trữ
và vận chuyển năng lượng, tổng hợp nucleotide. Sữa được khuyến nghị nên là nguồn
cung cấp Phosphorus. 100ml sữa cung cấp khoảng 16% lượng Phosphorus cần bổ sung
hàng ngày.
Kali là một chất điện phân quan trọng trong việc duy trì cân bằng
nước, khối lượng máu và huyết áp. Sữa thành phẩm được khuyến nghị nên là nguồn
cung cấp Kali. 100ml sữa cung cấp khoảng 3.5% lượng Kali cần bổ sung hàng ngày.
Selenium rất quan trọng trong phản ứng oxy hóa stress, vận chuyển
electron, và đối với các hormone tuyến giáp. Sữa là nguồn cung cấp selenium
tốt. 100ml sữa 2% béo cung cấp khoảng 4.8% lượng Selenium cần bổ sung hàng ngày
Natri là một chất điện phân rất quan trọng trong việc duy trì cân
bằng nước và máu.100ml sữa cung cấp khoảng 3% lượng Natri cần bổ sung hàng ngày
Kẽm là thành phần chủ yếu của rất nhiều enzyme và protein, tham
gia vào việc điều hòa gene. Sữa là nguồn cung cấp kẽm tốt. 100ml sữa cung cấp
khoảng 4.5% lượng kẽm cần bổ sung hàng ngày.
Những
loại protein và enzyme này mang đến nhiều giá trị dinh dưỡng, chúng bao gồm chủ
yếu là lctoferrin và lactoperoxidase. Có nhiều loại enzyme thiểu số khác trong
sữa nhưng chúng cũng không đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dinh
dưỡng cho con người.
Lactoferrin là một protein ngậm sắt, đóng vai
trò trong việc hấp thụ sắt và đề kháng. Nhiều chức năng của Lactoferrin đã được
phát hiện, nhưng người ta vẫn còn đang phải nghiên cứu kỹ lưỡng hơn trước khi đưa
ra công bố chính thức, bao gồm cả việc nó có thể bảo vệ con người khỏi nhiễm
trùng do vi khuẩn và virus, đóng vai trò trong phản ứng viêm, và hoạt động của
các enzyme. Việc sử dụng lactoferrin như một tác nhân kháng khuẩn được thảo
luận trong mục “thuộc tính kháng khuẩn của sữa” trong website này
Lactoperoxidase là một enzyme có hai dạng thể
hiện: hydrogen peroxide và thiocyanate – chúng có khả năng kháng khuẩn. Việc sử
dụng lactoperoxidase như một tác nhân kháng khuẩn được thảo luận trong mục “thuộc tính kháng khuẩn của sữa”
trong website này. Lactoperoxidase không cung cấp khả năng kháng khuẩn cho sữa
tươi vì hydrogen peroxide không thường xuất hiện trong sữa. Nó phải được cho
thêm vào từ bên ngoài để kích hoạt được khả năng này.
Lipase
trong sữa là một nhóm enzyme có khả năng phá vỡ chất béo nhưng chúng sẽ bị vô
hiệu hóa dưới tác động của thanh trùng – một phương pháp kéo dài thời gian sử
dụng sữa. Nhiều người tin rằng việc uống sữa tươi đóng một vai trò quan trọng
trong việc tiêu hóa chất béo. Chất béo được tiêu hóa trong dạ dày dưới tác động
của lipase trong dạ dày, và phần lớn việc tiêu hóa chất béo diễn ra trong ruột
non nhờ các enzyme do tuyến tụy tiết ra. Tầm quan trọng tương đối của lipase
trong sữa tươi so với lipase ở tuyến tụy chưa được nghiên cứu cụ thể.
Lactase
(ß-galactosidase) là một enzyme chịu trách nhiệm phá vỡ lactose trở thành
glucose và galatose để tiêu hóa. Không có nhiều lactase trong sữa tươi. Lượng
lactase trong sữa thành phẩm hoặc là do
các khuẩn acid lactic đưa từ ngoài vào sữa khi làm sữa chua, pho mát; hoặc là
do vi khuẩn xâm nhập từ không khí hay các nguồn khác. Nhiều người tin rằng những
người không dung nạp lactose có thể uống sữa tươi nhưng không thể uống sữa thanh
trùng vì lactase không hoạt động trong sữa sau khi thanh trùng. Do người ta
không tìm thấy lactase trong sữa tươi, nên quan điểm này vẫn là điều bí ẩn.
Những người bị chứng không dung nạp lactose có lượng lactase thấp. Điều này làm
cho họ không hấp thụ được một lượng lớn lactose nạp từ bên ngoài vào trong một
khoảng thời gian ngắn. Ruột non tiết ra lactase để tiêu hóa lactose, và bất kỳ
khuẩn acid lactic nào cũng có thể giúp cho ruột non tiêu hóa thêm lactose.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét